Trái cây bản địa cho thị trường nội địa

Thứ năm - 27/02/2020 02:16
Những năm gần đây, rau quả của Việt Nam ngày càng được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới, nhưng ngược lại việc nhập khẩu rau quả cũng tăng mạnh. Điều đáng nói chúng ta đã nhập khẩu nhiều loại trái cây và sản phẩm chế biến từ trái cây mà nước ta hoàn toàn có thể sản xuất được. Do vậy, cần quan tâm phát triển sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của trái cây trong nước để giảm nhập khẩu.
Mua bán trái cây tại chợ Phong Điền, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ.
Mua bán trái cây tại chợ Phong Điền, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ.

Cần giành lại lợi thế sân nhà


Do nhu cầu đa dạng và đời sống người dân được cải thiện, kim ngạch nhập khẩu rau quả nước ta liên tục tăng trong thời gian gần đây. Theo số liệu thống kê của ngành chức năng, kim ngạch nhập khẩu rau quả từ ở mức chỉ 200-500 triệu USD/năm trong giai đoạn 2008-2014 đã lên mức 622 triệu USD trong năm 2015, năm 2016 đạt 925 triệu USD, năm 2017 là 1.547 triệu USD, đến năm 2018 là 1.745 triệu USD và năm 2019  đạt 1.775 triệu USD. Nguồn nhập khẩu rau quả chủ yếu từ Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ, Úc, New Zealand, Ấn Độ, Myanmar, Hàn Quốc, Nam Phi và Chi lê. Trong đó, nhiều loại quả tươi nhập khẩu: xoài, sầu riêng, măng cụt, bòn bon, me, táo, cam, quýt và sản phẩm chế biến: trái cây sấy, si-rô, nước ép trái cây… nước ta hoàn toàn có thể trồng được.

Gia tăng nhập khẩu nhưng do sự tăng trưởng mạnh về xuất khẩu nên ngành rau quả vẫn liên tục duy trì xuất siêu trong nhiều năm qua. Cụ thể, cán cân xuất nhập khẩu rau quả luôn dương từ dưới 500 triệu USD/năm từ giai đoạn 2008-2012 lên 966 triệu USD trong năm 2014 và vượt lên mức 1,2 tỉ USD vào năm 2015, đến năm 2016 đạt 1,5 tỉ USD, năm 2017 là 1,9 tỉ USD và 2 năm gần đây tiếp tục đạt trên dưới 2 tỉ USD/năm.

Lợi thế về cán cân thương mại là vậy, nhưng với việc tăng cường nhập khẩu đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất và tiêu thụ nhiều loại trái cây trong nước. Đặc biệt, trong bối cảnh có khoảng 90% lượng trái cây của nước ta được tiêu thụ chủ yếu ở dạng tươi thô, sản phẩm không thể để lâu do khâu bảo quản, chế biến còn hạn chế. Ngoài ra, nhiều loại trái cây của nước ta, nhất là trái cây có múi chủ yếu tiêu thụ tại thị trường nội địa, nên cũng dễ bị giảm thị phần tiêu thụ hoặc bị rớt giá khi trái cây nhập ngoại cùng loại có giá rẻ tràn vào nước ta.

Thực tế cho thấy, thời gian qua, các loại cam, quýt do nông dân trồng còn gặp nhiều khó khăn tiếp cận các kênh bán hàng hiện đại như siêu thị và cửa hàng tiện ích. Thế nhưng, nhiều loại trái cây có múi nhập khẩu, chẳng hạn cam vàng Nevel Úc có mặt với số lượng lớn tại nhiều siêu thị, cửa hàng tiện ích và trưng bày ở những vị trí khá bắt mắt. Tương tự, nhiều loại bom, lê, nho nhập khẩu… cũng được ưu tiên bán tại nhiều siêu thị và thường có chương trình khuyến mãi giảm giá. Điều này, khiến cho người tiêu dùng dù muốn ưu tiên dùng trái cây Việt nhưng đôi lúc lại khó tìm mua so với trái cây nhập ngoại.


Chú trọng thị trường nội địa


Với dân số hơn 96 triệu dân, Việt Nam là thị trường tiêu thụ trái cây rất tiềm năng, cần được quan tâm khai thác. Thời gian qua, việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa cũng đã khẳng định hiệu quả rõ nét trong những trường hợp đầu ra xuất khẩu có khó khăn. Đơn cử, trước tình hình giá nhiều loại trái cây trong nước bị sụt giảm mạnh do xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc gặp khó vì ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, các địa phương đã đẩy mạnh các hoạt động “giải cứu” và tăng cường chế biến, tiêu thụ sản phẩm tại nội địa. Cùng với việc kịp thời tháo gỡ các khó khăn cho xuất khẩu đã góp phần quan trọng giúp giá nhiều loại trái cây nhanh chóng  phục hồi trở lại. 
 
bao ton
Nhãn lồng Huế - một trong những loại trái cây bản địa ngon nức tiếng.

Theo các chuyên gia, ngành hàng trái cây của chúng ta không chỉ còn hạn chế trong chế biến và bảo quản mà khâu phân phối, đưa sản phẩm đến tay nhiều người tiêu dùng cũng tồn tại bất cập, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đáng chú ý, giá trái cây được nông dân bán ra ở mức thấp nhưng khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng thường cao hơn rất nhiều, thậm chí cao gấp đôi, gấp ba vì qua nhiều khâu trung gian. Theo đó, việc quản lý chất lượng sản phẩm của nhiều loại trái cây từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng chưa được chặt chẽ, để có thể truy xuất được nguồn gốc và đảm bảo chất lượng. Nông dân còn định hướng trồng cây ăn trái để phục vụ xuất khẩu, chứ chưa quan tâm đúng mức đến việc đưa hàng vào bán tại siêu thị và các kênh bán hàng cấp cao ở nội địa. Điều này đã phần nào làm hạn chế đến việc tổ chức hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm, nhất là việc kết nối giữa nông dân với các doanh nghiệp trực tiếp tiêu thụ hàng ở nội địa. Do vậy, các cơ quan chức năng cùng cả cộng đồng doanh nghiệp và người trồng cây ăn trái cần quan tâm khắc phục kịp thời các hạn chế trên.

Thời gian qua, nông dân có suy nghĩ rằng sản xuất trái cây sạch thì “cực” hơn so với trái cây trồng theo quy trình thông thường nên thường đòi hỏi phải bán giá cao. Đây là điều không có gì sai, nhưng nếu suy nghĩ sâu hơn, ta thấy rằng khi doanh nghiệp mua hàng họ không chỉ quan tâm đến yếu tố chất lượng mà cần phải có giá cả hợp lý để dễ bán và đảm bảo lợi nhuận. Còn người tiêu dùng cũng muốn mua được sản phẩm trái cây sạch với mức giá hợp lý. Trong khi đó, nông dân sản xuất theo hướng sạch, áp dụng quy trình canh tác tiên tiến, thực hiện giảm lượng sử dụng phân bón, thuốc hóa học... có thể giúp giảm chi phí sản xuất. Nông dân cần đổi mới tư duy, chủ động ghi ghép nhật ký sản xuất, xác định giá thành sản phẩm để bán sản phẩm với mức giá vừa đảm bảo cho mình có lợi nhuận, vừa kích thích được người tiêu dùng tiêu thụ sản phẩm.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Thành viên liên kết
HTX Tư vấn thiết kế và xây dựng Việt Nam
bcsmart
Liên hiệp HTX Ocop Việt Nam
GMG
ocopshop
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây